Trang chủ > Uncategorized > Chương 7

Chương 7

Khi cơn mát lạnh dần lan trên các cánh đồng và mảnh trăng từ từ lên ở chân trời, đôi tình nhân nằm nghỉ trên thảm cỏ ngập trong ánh sáng dịu êm.

Một nỗi buồn vô biên dâng lên hồn họ, một cơn buồn mà cả hai cố thoát ly trong giấc ngủ…

Khi mở mắt, Đan Thanh thấy Li- Liên đang bận chải mái tóc đen. vẫn còn chưa tỉnh hẳn, chàng lơ đễnh quan sát nàng trong chốc lát.

– Em đã thức dậy rồi đó sao? Cuối cùng chàng bảo.

Nàng giật mình quay lại phía chàng như thể nàng rất

sợ hãi.

– Em phải đi, nàng buồn bã và lúng túng bảo. Em không muốn đánh thức anh dậy.

– Ồ, anh dậy rồi, như em thấy. Chúng ta phải đi rồi sao? Không phải là đôi ta không có nhà cửa đấy sao!

– Với em, đúng, nhưng anh, anh có tu viện.

– Chỗ của anh không còn là nơi tu viện nữa. Chúng ta hoàn toàn cô độc, không có mục đích trong đời. Dĩ nhiên anh sẽ theo em.

Nàng quay mắt đi nơi khác.

– Đan Thanh, anh không thể theo em. Em phải về lại với chồng em: chàng sẽ đánh đập em vì em đã ngủ đêm ở ngoài. Em sẽ nói rằng em lạc đường. Nhưng chàng sẽ không tin đâu, lẽ tất nhiên.

Lúc ấy Đan Thanh nghĩ đến việc Huyền Minh đã tiên đoán với chàng điều đó. Và bạn chàng đã đoán đúng.

Chàng đứng lên, chia tay cho nàng.

– Anh đã lầm, chàng nói. Anh đã tưởng rằng hai ta sẽ ở cùng nhau. Nhưng em thật tình muốn để anh ngủ và bỏ đi không từ giã sao?

– Em nghĩ anh sẽ giận và có lẽ sẽ đánh đập em. Nếu chồng em đánh em ư? Tốt, điều ấy là lẽ thường, là thông lệ. Nhưng em không muốn nhận thêm những roi đòn từ nơi anh.

Chàng giữ tay nàng lại.

– Li- Liên, anh không đánh đập em hôm nay cũng như mãi mãi về sau. Em không muốn đi với anh hơn là về với chồng em sao, vì hắn đánh đập em?

Nàng vội dang ra xa để rút tay lại.

– Không, không, không! Nàng kêu lên, giọng đẫm nước mắt. Và bởi vì chàng nhận thấy rõ rằng nàng thật lòng muốn thoát khỏi chàng, rằng nàng thà nhận nơi người đàn ông kia những đòn đánh đập hơn là nơi chàng những lời ngọt ngào, Đan Thanh buông tay nàng ra, và nàng bắt đầu khóc. Nhưng đồng thời, nàng bỏ chạy. Nàng vừa chạy hai tay vừa bưng lấy mắt đẫm lệ. Chàng không nói gì nữa, dõi mắt theo nàng. Chàng thương xót nàng khi thấy nàng bỏ đi như thế qua những cánh đồng, theo tiếng gọi và dưới áp lực của một sức mạnh vô hình nào khiến chàng phải lo nghĩ. Chàng thương xót nàng và hơi tự thương hại chính mình dường như đã không được may mắn, bây giờ chàng ở đấy hoàn toàn cô độc, ngơ ngẩn, bị bỏ rơi. Mặt khác chàng còn đang mệt mỏi và cần giấc ngủ, chàng chưa bao giờ kiệt sức tới mức độ ấy. Chàng lại ngủ và chỉ tỉnh dậy dưới sức nóng của mặt trời đã lên cao.

Bấy giờ chàng đã dễ chịu, chàng vội vàng đứng lên, chạy đến suối tẩy rửa và uống nước. Khi ấy những ký ức lại dâng lên tràn ngập hồn chàng. Từ những giờ phút ái ân đêm ấy, dâng lên muôn ngàn hình ảnh, muôn ngàn ấn tượng kiều diễm dịu dàng xông hương như những bông hoa từ những xứ xa xôi. Tư tưởng chàng dõi theo những hình ảnh ấy trong khi chàng mạnh dạn lên đường, một lần nữa chàng thưởng thức lại những cảm giác ấy, lần nữa và lần nữa. Biết bao nhiêu là mộng mị, cô gái màu da nâu xa lạ kia đã dồn dập trong chàng! Biết bao mầm nụ nàng đã làm nảy nở, biết bao vị lạ lùng và thèm khát nàng đã làm lắng dịu và biết bao nỗi thèm khát mới nàng đã khơi thêm trong chàng!

Trước mắt chàng trải dài những cánh đồng và lùm cây, những chòm rạ khô rụi và cánh rừng âm u, sau lưng chúng chắc phải có những nông trại, những nhà xay, một làng mạc, một thành thị. Lần đầu tiên vũ trụ mở rộng trước mắt chàng, chờ đợi chàng, sẵn sàng đón tiếp chàng, sẵn sàng đem lại cho chàng hoan lạc và khổ đau. Chàng không còn là một cậu học trò nhìn mọi sự qua khung cửa hành trình của chàng không còn là một cuộc đi dạo phải có lúc trở về. Thế gian bao la này bây giờ đã trở thành một thực tại, một phần của chính chàng trong thế gian này có định mệnh của chính chàng, bầu trời của thế gian này là bầu trời của chính chàng, nắng mưa ở thế gian này chàng phải chịu. Chàng nhỏ xíu trong vũ trụ rộng lớn này, nhỏ xíu, càng đi như một con thỏ rừng, một con bọ rầy qua màu bao la xanh lục. Không còn nữa hồi chuông báo thức, báo giờ hành lễ, giờ học bài, giờ ăn trưa.

Ồ, chàng đói làm sao! Một bát sữa, một bát xúp, những kỷ niệm ấy mới thần tiên làm sao! Bao tử chàng như một con sói đói. Chàng đi qua một cánh đồng lúa mì, những chẹn lúa vừa chín tới. Bằng những ngón tay chàng bóc vỏ lúa, nhai ngấu nghiến những hạt nhỏ, hái thêm và độn đầy hai túi. Chàng thấy những hạt dẻ còn xanh, cắn ngon lành vào những vỏ kêu ròn và mang theo một ít làm lương thực.

Rồi lại đến những cánh rừng, những rừng thông có những cây sồi và tần bì băng ngang và ở đấy có rất nhiều cây việt quất. Chàng dừng lại đấy, ăn giải khát. Trong đám cỏ gầy và cứng của khu rừng có những hoa lọng màu xanh, những cánh bướm nâu bay lả tả dưới nắng và biến mất. Chính trong một cánh rừng như vầy nữ thánh Geneviève đã sống. Chàng vẫn thích tiểu sử của vị nữ thánh này. Ô! Chàng sẽ sung sướng biết bao nếu được gặp bà! Biết đâu lại không có một chòi ẩn sĩ nào ở tuốt sâu trong rừng với một linh mục già râu ria sống trong một cái hang hay một chòi bằng vỏ cây. Biết đâu không có cả những chú bán than sống ở đấy. Chàng sẽ thích thú làm quen với họ. Ngay dù có những kẻ cướp chắc chắn họ cũng không làm gì chàng. Thật tốt nếu được gặp người ta, bất cứ hạng người nào. Nhưng chàng biết rõ là có thể chàng sẽ tiếp tục đi rất lâu trong rừng này, hôm nay, ngày mai và còn nhiều ngày nữa, mà không gặp được một ma nào cả. Ngay đến điều ấy chàng cũng phải rán chịu nếu số phận chàng phải thế. Không nên suy nghĩ nhiều, mà phải để mặc sự sống xoay vần ra sao thì

Chàng nghe một con chim gõ kiến kêu trong cây và cố rình nó. Rất lâu chàng phải uổng công tìm. Nhưng cuối cùng chàng cũng nhìn thấy nó và ngắm nó một lúc, đậu trên cành cao, hoàn toàn cô đơn, dán mình vào thân cây và mổ vào đấy vừa đưa chiếc đầu tới lui không biết mỏi. Thật hoài của, sao người ta không thể nói chuyện với thú vật! Thật tuyệt nếu có thể gọi được con gõ kiến kia và nói với nó một lời gì khả ái và có lẽ tìm biết những chi tiết về đời sống nó trên cây cối, việc làm của nó, những niềm vui của nó. Ồ! Nếu người ta có thể biến hình được!

Chàng nhớ lại rằng đôi khi, vào những giờ rỗi, chàng thường vẽ nguệch ngoạc bằng bút chì trên tấm bảng nhỏ nhà trường của chàng những hình hoa, lá, cây cối, súc vật, người. Chàng thường chơi như vậy rất lâu và đôi khi, như một vì Thượng đế nho nhỏ, chàng đã sáng tạo những sinh vật do chàng chế hóa: trong đài hoa, chàng đặt những con mắt và một cái miệng, từ một chòm lá tua ra trong cây chàng đã vẽ thành hình những nét mặt, và cho cây mang một cái đầu. Chàng đã thường sung sướng hàng giờ và mải mê vì trò chơi ấy. Dùng khả năng ảo thuật của mình, chàng đã vạch những đường và để mình ngạc nhiên khi thấy hình ảnh chàng đã vẽ có hình một lá cây, một đầu cá, một đuôi chồn, một đôi lông mày. Đáng lẽ người ta phải có được khả năng tự biến hóa như những đường vẽ kia, chàng nghĩ. Chàng sẽ vui thích biết bao để trở thành một con chim gõ kiến, có lẽ trong một ngày hay một tháng; khi ấy chàng sẽ sống trên ngọn cây, mổ thân cây với chiếc mỏ mạnh mẽ của chàng, gượng đứng cho vững với những lông đuôi; chàng sẽ nói bằng ngôn ngữ của những con gõ kiến và lấy được từ nơi vỏ cây nhiều thứ ngon lành. Tiếng gõ của con gõ kiến âm vang trong rừng một âm thanh mạnh và thú vị.

Đan Thanh gặp biết bao thú vật trên đường chàng đi trong rừng. Những con thỏ chạy trốn khỏi lùm cây khi chàng đến gần, chăm chú nhìn chàng, quay đi và chuồn mất với những tai cụp và một vật sáng dưới đuôi. Trong một cụm rừng thưa chàng thấy một con rắn lớn nằm bất động, vì đấy không phải là một con vật sống mà chỉ là cái vỏ của nó. Chàng nhặt lên ngắm nghía: một mẫu họa xinh đẹp màu xám nâu chạy dọc đường sống lưng của nó, và ánh nắng xuyên qua chiếc vỏ mảnh ấy như một màng nhện. Chàng thấy những con chim sáo mỏ vàng, chúng hé mắt nhìn chàng chăm chăm với những đôi mắt đen láy đầy lo ngại, và bay là là mặt đất để trốn biệt. Những chim mỏ đỏ và chim mai hoa thì vô số. Trong một góc rừng có một cái lỗ, một cái ao đầy nước đặc màu hơi lục trên đó có những con nhện chân dài chạy tán loạn không ngừng như những kẻ bị ma ám, chúng đang chơi một trò gì không thể hiểu nổi, và ở trên mặt ao, vài con chuồn chuồn cánh xanh mờ đang bay lượn. Vào một lúc bấy giờ đã khá chiều chàng thấy những cành lá xao động; chàng nghe những cành răng rắc và nghe đất mềm tung tóe, và một con vật to lớn, khó thấy rõ, lao mình nặng nề qua những cành lá, có lẽ một con nai, có lẽ một con heo rừng, chàng không biết được. Chàng vẫn đứng đấy rất lâu cho lại hơi sau một hồi kinh sợ, và đưa mắt hồi hộp theo dõi dấu con vật, theo mãi, tim đập nhanh cho đến khi mọi sự đã trở lại yên lặng từ lâu.

Chàng không tìm thấy đường ra khỏi rừng. Chàng phải ngủ đêm lại đấy. Khi tìm chỗ ngủ và chọn một lớp rêu làm nơi tá túc chàng thử tưởng tượng sẽ ra sao nếu chàng không ra khỏi rừng và phải ở lại đây mãi mãi. Và chàng mường tượng rằng điều ấy có lẽ là một bất hạnh lớn lao cho chàng. Sống bằng những trái nạc, cũng được đi, ngay cả ngủ trên rêu nữa mà chắc chắn là chàng sẽ dựng được cho mình một chiếc lều có lẽ sẽ làm được ra lửa. Nhưng cứ ở mãi một mình, mãi mãi một mình, giữa sự im lặng của những thân cây say ngủ, giữa những con vật cứ thấy mình là chạy trốn và mình không nói gì được với chúng, điều ấy quả là buồn không thể chịu nổi. Không được thấy người ta, không nói được với ai một lời chào buổi sáng cũng như buổi tối, không còn có thể nhìn sâu vào mắt và mặt người khác, không còn ngắm được những thiếu nữ, thiếu phụ, không còn được thưởng thức một chiếc hôn nào, không còn được chơi trò mê say và huyền ảo với những làn môi và tứ chi, Ồ, thật sẽ không thể tưởng tượng được! Nếu đây là phần số của mình, chàng nghĩ mình sẽ tìm cách trở thành một con thú, một con gấu hay một con nai, dù cho điều ấy phải đánh đổi hạnh phúc vĩnh cửu. Làm một con gấu đực, và yêu một chị gấu, điều ấy sẽ không đến nỗi quá tệ và dù sao cũng vô cùng tốt hơn là duy trì lý trí và ngôn ngữ của mình và các thứ khác để sống với chúng mà cô độc, buồn bã thiếu tình yêu.

Trên thảm rêu của chàng trước khi ngủ, chàng tò mò và lo ngại lắng nghe muôn ngàn tiếng động không hiểu được và huyền bí của đêm rừng. Bấy giờ chàng chỉ vỏn vẹn chừng ấy thứ để làm bạn, chàng phải sống với chúng, quen với chúng, tự lượng sức mình và thích ứng với chúng; bây giờ chàng là một phần tử trong thế giới loài chồn và mang, thông và tùng; chàng phải biết sống với chúng, chia xẻ Với chúng không khí và mặt trời, cùng chúng chờ đợi ngày lên, đói no với chúng, trở thành người khách của chúng.

Sau đấy chàng ngủ thiếp, mơ về những thú vật và người. Chàng mơ chàng là một con gấu và ngấu nghiến Li- Liên với những vuốt ve. Giữa khuya tỉnh dậy chàng cảm thấy một nỗi sợ hãi sâu xa vô cớ, cảm thấy lòng chàng vô cùng lo ngại và suy nghĩ rất lâu, rối như tơ vò. Chàng sực nhớ hôm qua và hôm nay chàng đã ngủ không đọc kinh tối. Chàng đứng dậy quỳ gối bên chỗ nằm, đọc bài kinh nhật tụng hai lần cho hôm qua và hôm nay. Chẳng mấy chốc chàng đã ngủ lại được.

Sáng sớm, chàng đưa mắt nhìn những thân cây lớn quanh chàng. Chàng không nhớ chàng ở nơi nào. Niềm lo ngại về cánh rừng bắt đầu thuyên giảm, với một niềm hân hoan mới chàng dấn mình trong đời sống rừng hoang nhưng vẫn tiếp tục đi về hướng mặt trời. Vào một lúc chàng gặp một con đường ngang rất bằng phẳng giữa những cây tùng trắng già cỗi và thẳng tắp. Sau khi đi một lúc giữa những cây cột ấy, chàng bắt đầu nghĩ đến ngôi nhà thờ lớn trong tu viện, ngôi nhà thờ mà hôm kia trong cánh cổng u tối của nó chàng đã thấy Huyền Minh bạn chàng biến dạng khi nào nhỉ? Chỉ cách có hai ngày thôi sao?

Chỉ sau hai ngày và hai đêm chàng mới ra khỏi rừng. Chàng vui mừng khi nhận ra dấu vết sự hiện diện của người ta: những cánh đồng cày cấy, những luống đất trồng đầy lõa mạch và kiều mạch, những đồng cỏ lác đác có một đường mòn băng ngang có thể thấy được từ xa. Đan Thanh hái lúa mạch bỏ vào mồm nhai, những luống đất trồng trọt hoan hỷ đón nhận chàng. Sau chuỗi ngày dài trong rừng rú, mọi sự bây giờ có một vẻ người, thân mật: con đường nhỏ, lúa mạch, những hoa “mua” tàn úa trở màu trắng. Bây giờ chàng sẽ gặp người sau chừng một tiếng đồng hồ, chàng đi qua một thửa ruộng trên bờ có dựng một thánh giá. Chàng quỳ xuống bên cây thánh giá và cầu nguyện. Khi đi quanh góc một ngọn đồi, bỗng chốc chàng thấy mình ở dưới một cây Điền- mã im bóng, và mừng rỡ nghe tiếng róc rách của một máy nước chảy qua một ống dẫn bằng gỗ vào trong một thùng gỗ. Chàng uống thứ nước lạnh ngon ngọt ấy, hân hoan nhìn thấy từ những cây hương mộc có những trái đã đen nhô lên vài mái tranh. Hơn tất cả những dấu hiệu đáng yêu kia về sự hiện diện của người, là tiếng kêu của một con bò cái, âm thanh làm chàng cảm động sâu xa. Tiếng kêu ấy đến với chàng ngọt ngào, ấm áp thân thiết như một lời chào hay một lời mừng đón tiếp.

Lắng tai nghe ngóng, chàng tiến gần đến chòi tranh nơi phát ra tiếng rống. Một đứa bé trai tóc đỏ, mắt xanh trong đang ngồi giữa đám đất bụi trước cửa nhà với một bình đất đầy nước bên cạnh. Nó nặn đất với nước thành một thứ bột dẻo mà đôi giò trần trụi của nó đã phết đầy. Rất hài lòng, nó bóp siết thứ bùn ẩm trong đôi tay, ngắm bùn chảy giữa các ngón, nặn thành những quả bóng và còn đưa cằm vào phụ với hai tay để nắn cho rõ chặt và tròn.

Chào em bé, Đan Thanh nói, rất khả ái. Nhưng khi đứa trẻ ngước mắt và thấy một người lạ, nó há mồm, cái mặt phúng phính của nó cau lại. Nó co giò chạy vừa kêu the thé qua khung cửa gian nhà. Đan Thanh đi theo đứa bé, vào trong bếp. Bếp tối đến nỗi vì vừa từ giã ánh sáng rực rỡ của mặt trời ban trưa, lúc đầu chàng không nhận rõ được vật gì. Chàng đánh liều nói lên một lời chào khả ái. Không lời đáp. Nhưng chẳng mấy chốc, một giọng nói nhỏ, một giọng người già, dần dần chế ngự được tiếng kêu của đứa bé đang sợ hãi, dỗ dành nó đủ điều. Cuối cùng một người đàn bà nhỏ nhắn đột hiện trong bóng tối và tiến lại, đưa một tay lên che mắt và nhìn người khách mới đến!

– Lạy Chúa phù hộ cho má, hỡi má, Đan Thanh kêu lên. Lạy các thánh trên thiên đường ban phước lành cho nét mặt tử tế của má. Đã ba ngày nay con không thấy một mặt người.

Người đàn bà già, với đôi mắt viễn thị há hốc mồm nhìn chàng.

– Chớ cậu muốn gì thế? Bà ngập ngừng hỏi.

Đan Thanh chìa tay cho bà, hơi vuốt ve bàn tay của

bà:

– Con chỉ muốn chào má, má ơi, và muốn nghỉ ngơi một lát, và giúp má nhóm lửa. Nếu má muốn cho con một mẩu bánh mì, con sẽ không chê nó. Nhưng chuyện ấy không vội gì.

Chàng thấy một chiếc ghế dài mắc vào tường, ngồi lên đấy trong lúc bà già cắt một khúc bánh cho đứa bé bấy giờ đang chăm chú tò mò nhìn người lạ. Tuy nhiên nó dường như luôn luôn sẵn sàng để khóc và chạy trốn. Bà già cắt thêm một mẩu bánh và mang lại cho Đan Thanh.

– Cám ơn nhiều, chàng nói, Thượng Đế sẽ đền bù cho má.

– Cậu không có gì trong bụng sao? Bà già hỏi.

– Bánh mì này thì không, nhưng bụng con đầy cả trái việt quất.

– Thế thì ăn đi! Cậu ở đâu lại?

– Ở Thánh Ân, từ tu viện.

– Cậu là một mục sư à?

– Không, không. Một học trò. Đi du lịch.

Bà nhìn chàng một cái nhìn nửa ngớ ngẩn, nửa chế nhạo, khẽ lắc lắc chiếc đầu trên cần cổ gầy và nhăn nhúm. Bà để cho chàng nhai vài miếng và đưa đứa bé ra ngoài trời lại, rồi bà trở vào và tò mò hỏi:

– Cậu có biết tin gì mới mẻ không?

– Không, không có gì quan trọng. Má có biết cha An không?

– Không, ông ta thế nào?

– Ông Ốm.

– Ốm à! ổng có sắp chết không?

– Con không biết. Có lẽ.

– Ồ! Để cho ổng chết. Tôi phải đi nấu cháo đây. Cậu giúp tôi chẻ củi mồi nhé.

Bà đưa cho chàng một khúc gỗ thông đã được hong khô bên lửa và một con dao. Chàng chẻ những cành củi như bà muốn và nhìn bà bỏ chúng vào trong tro và thổi cho đến khi chúng bắt lửa. Rồi bà đặt lên trên chúng những cành thông và sồi; trong một trật tự khúc chiết và huyền bí; ngọn lửa tung tóe sáng rực trong chiếc lò mở rộng. Bà treo lên trên ấy chiếc nồi đen lớn móc vào một sợi xích bám đầy mồ hóng ở trong ống dẫn khói.

Theo lời sai bảo của bà già Đan Thanh đi lấy nước ở giếng, lấy váng sữa. Ngồi trong bóng tối đầy khói, chàng nhìn những ngọn lửa nhảy múa với khuôn mặt xương xẩu nhăn nheo của bà già thoắt biến thoắt hiện trong ánh lửa đỏ hồng. Chàng nghe bên cạnh, sau tấm vách ván, con bò cái đang sục sạo trong máng ăn và va chạm vào tường. Âm thanh làm chàng thích thú. Cây Điền- mã, giếng nước, ngọn lửa kêu tí tách dưới nồi đồng, hơi thở mạnh và tiếng nhai của chị bò, những va chạm điếc tai của nó động vào vách ván, gian phòng tranh tối tranh sáng với chiếc bàn và ghế dài, bà già nhỏ nhắn bận rộn tất cả những thứ ấy thật đẹp và tốt, trong đó ta cảm nghe dưỡng chất và hòa bình, người và hơi nóng, tổ ấm và gia đình. Lại có hai con dê ở đấy và chàng được bà già cho biết nhà còn nuôi hai con heo ngoài kia trong máng, và bà già là bà nội của người nông phu, bà cố của đứa bé Sao Sao. Thỉnh thoảng nó đi vào, vẫn im lặng đưa mắt nhìn, tia nhìn hơi lo ngại, nhưng nó không còn khóc nữa.

Người nông phu cùng vợ trở về nhà. Họ đều rất ngạc nhiên khi thấy trong nhà có một người lạ. Anh chàng đã muốn khởi sự càu nhàu, vẻ khiêu khích, anh ta kéo tay chàng trẻ tuổi ra phía cửa để nhìn đầu chàng dưới ánh sáng ngày. Khi ấy anh bắt đầu cười lớn, thân mật vỗ vai chàng và mời chàng ăn tối. Họ ngồi xuống và mỗi người nhúng bánh mì của mình vào đĩa sữa chung cho đến khi sữa gần hết, và người nông phu uống phần còn lại.

Đan Thanh hỏi chàng có thể ở lại đến sáng mai và ngủ dưới mái của họ không. – Không, người đàn ông đáp, chuyện ấy thì không được, nhưng ngoài kia khắp nơi còn có vô số cỏ khô, chàng sẽ tìm được chỗ ngủ ở đấy.

Người thôn phụ giữ kỹ đứa bé bên cạnh. Nàng không góp phần vào câu chuyện, nhưng suốt bữa ăn đôi mắt tò mò của nàng xâm chiếm lấy người lạ mặt trẻ tuổi và mớ tóc và đôi mắt đã làm nàng cảm ngay. Rồi rất hài lòng, nàng để ý đến cần cổ trắng đẹp của chàng, đôi bàn tay thanh tú và sang trọng, với những cử động thanh lịch nhẹ nhàng.

Đây là một người khách hào hoa phong nhã, và còn trẻ thế! Nhưng điều quyến rũ nàng nhất và làm nàng đâm ra yêu chàng, chính là giọng nói của chàng khách lạ, cái giọng đàn ông rất trẻ có âm điệu huyền bí và tỏa ra những tia ấm dịu dàng thu phục những trái tim và vây bọc lấy người ta như một vuốt ve mơn trớn. Nàng muốn được ở lại đấy mãi mà nghe chàng nói.

Sau bữa ăn người nông phu đi làm việc ở chuồng ngựa, Đan Thanh đã rời nhà, rửa tay nơi máy nước và ngồi trên bức tường thấp để hóng mát và lắng nghe tiếng nước chảy róc rách. Chàng còn do dự, thật ra chàng không còn gì để làm nơi đây, tuy nhiên chàng thấy buồn lòng phải ra đi quá sớm như thế. Khi ấy người thôn phụ đi ra, tay xách gàu, đặt nó dưới vòi nước để hứng đầy. Nàng thấp giọng nói: “Nếu anh còn ở quanh đây tối nay, em sẽ mang thức ăn lại cho anh. Đằng kia sau đám ruộng lúa mạch, có cỏ khô mai mới đưa vào. Anh có còn ở lại không?

Chàng nhìn gương mặt đầy tàn nhang của nàng, đôi mắt to sáng với tia nhìn ấm, thấy nàng lấy gàu nước với đôi cánh tay mạnh mẽ. Chàng mỉm cười với nàng và ra hiệu sẽ ở lại. Nàng bỏ đi với gàu đầy nước và biến dạng trong ánh mờ của khung cửa. Lòng chàng tràn ngập niềm cám ơn và vui sướng. Chàng cứ ngồi đấy, tai lắng nghe nước chảy nơi máy. Một lát sau chàng mới trở vào, tìm người nông phu bắt tay anh ta cùng bà già và cám ơn họ. Chòi tranh phảng phất hơi lửa mồ hóng, sữa. Một phút giây trước nó còn là một nơi trú ẩn, tổ ấm đối với chàng; bây giờ nó đã trở thành xa lạ. Chàng chào từ giã và ra đi.

Bên kia những mái nhà tồi tàn chàng gặp một tháp nhà thờ và cạnh đó một rừng cây lớn đẹp, nhiều cây sồi cao có vỏ thấp ở dưới. Chàng ở đấy dưới bóng cây, đi bách bộ giữa những thân cây to lớn. Đàn bà và tình yêu, chàng nghĩ, thật là những chuyện lạ lùng. Những lời lẽ với họ đều dư thừa, vô ích. Người thôn phụ kia, thật vậy, chỉ cần có một tiếng để chỉ cho chàng nơi hẹn hò; những chuyện khác nàng đã không cần diễn tả ra sao. Bằng đôi mắt, vâng, và một vẻ gì trong giọng nói hơi mơ màng và với một cái gì ấy ta không biết được; có lẽ là một mùi hương lặng lẽ lan truyền từ da thịt nàng, qua mùi hương ấy những đàn ông và đàn bà biết ngay là họ cần đến nhau. Lạ thay! Cái thứ ngôn ngữ tinh vi đó, chàng đã học được nhanh chóng làm sao! Chàng thưởng thức trước hương vị đêm ấy, chàng rất tò mò muốn biết mình sẽ tìm thấy gì trong người đàn bà tóc hung cao lớn ấy, những tia nhìn, giọng nói, chân tay, cử động, những chiếc hôn của nàng sẽ thế nào. Chắc chắn là phải khác với Li- Liên. Bây giờ nàng ấy ở đâu, Li- Liên với mớ tóc cứng, màu da nâu, những hơi thở dài đứt quảng? Chồng nàng có đánh đập nàng không? Nàng có còn nhớ đến mình chăng? Nàng đã tìm ra một nhân tình mới y hệt như mình đã tìm ra được một người đàn bà mới ngay từ hôm nay chăng? Thật những biến cố đến nhanh làm sao! Khắp nơi hạnh phúc đang ở trên đường đi của bạn, đẹp làm sao, ấm làm sao, và chóng tàn một cách kỳ lạ. Đấy là một tội lỗi, một sự ngoại tình, mà cách đấy không bao lâu chàng thà bị giết hơn là vi phạm. Và bây giờ chàng đã chờ đợi đến người đàn bà thứ hai mà lương tâm chàng vẫn câm lặng và an ổn. Nghĩa là, nó không hẳn là an ổn nhưng không phải chính vì sự ngoại tình hay sự thèm khát nhục cảm đã làm tâm hồn chàng có khi xao xuyến nặng nề. Đấy là một cái gì khác mà chàng không thể đặt tên. Đấy là cảm thức về một tội lỗi mà người ta không hề phạm, nhưng người ta đã mang vào đời cùng với chính mình. Phải chăng đấy chính là nguyên tội trong thần học? Có thể. Phải, cuộc đời mang sẵn trong nó một cái gì thuộc về trọng tội; nếu không thì tại sao một kẻ trong sạch, thánh thiện như Huyền Minh phải chịu làm lễ tẩy tội hằng ngày như một phạm nhân? Hay tại sao chính chàng, Đan Thanh, lại giữ tận một nơi nào trong thẳm sâu của hồn mình cái cảm thức về tội lỗi đó? Không phải chàng rất sung sướng đấy hay sao? Không phải chàng còn trẻ trung, khỏe mạnh tự do như cánh chim trong lòng trời hay sao? Không phải những người đàn bà đang yêu mến chàng đấy sao? Chẳng đẹp hay sao khi cảm thấy mình làm người tình nhân để ban cho một người đàn bà cái khoái lạc sâu xa mà mình hưởng thụ từ nàng? Vậy thì tại sao chàng không hoàn toàn hạnh phúc? Tại sao, trong cái hạnh phúc trẻ trung của chàng cũng như trong cái đức hạnh và thánh thiện của Huyền Minh lại thỉnh thoảng len vào niềm đau đớn kỳ quặc này, lòng thổn thức nhẹ nhàng và lời than vãn cho hạnh phúc mong manh này? Tại sao đôi lúc chàng lại phải đào bới đầu óc mình mà suy niệm như thế trong khi chàng biết rằng mình không phải là một người suy tư?

Nhưng thế mà cuộc đời vẫn đẹp xiết bao! Chàng ngắt một bông hoa tím nhỏ đưa vào gần mắt để nhìn vào tràng hoa bé tí, ở trong có những mạch cùng những bộ phận mảnh như những sợi tóc, giống như nơi thâm kín nhất của người đàn bà và nơi sâu thẳm nhất của bộ óc một nhà tư tưởng, ở đó ngân lên sự sống và khoái lạc.

Ồ tại sao người ta không biết gì cả, tuyệt đối không gì cả. Tại sao người ta không thể nói chuyện với bông hoa này? Nhưng hai người cũng chẳng thể trao đổi thật sự tư tưởng của mình, trừ trường hợp một tình cờ may mắn, một tình bạn hay một tình cảm thực phi thường. Không, thật là may mắn khi tình yêu chẳng cần đến ngôn ngữ; nếu không sẽ đầy đẫy ngộ nhận và điên rồ. Ôi! Cái kiểu đôi mắt của Li- Liên khép hờ như thúc thủ dưới sự quá độ của khoái cảm, chỉ để lộ một nét trắng trong kẽ hở giữa hai làn mi, điều ấy không thể nào diễn tả dù có ngàn vạn công thức của những học giả hay thi nhân! Không có gì, ồ, tuyệt đối không có gì có thể diễn tả đến cùng, suy tưởng đến cùng, thế mà vẫn luôn luôn lại cần nói, lại cần suy tư. Chàng quan sát những chiếc lá trên cây hoa nhỏ: một tài ba trác tuyệt nào đây đã sắp đặt chúng một cách vô cùng xinh xắn xung quanh cành lá! Những câu thơ của Virgile thật đẹp, chàng yêu thích chúng, nhưng trong Virgile có nhiều câu không đẹp bằng, đầy đủ ý nghĩa bằng sự sắp đặt theo hình xoắn của những chiếc lá nhỏ này trên cành cây. Thật hạnh phúc thay hay hoan lạc thay, thật là một hành vi cao cả và sâu xa thay nếu một người có khả năng tạo ra chỉ một cành hoa như vầy. Nhưng không ai có thể làm được điều ấy, không một vị đế vương nào, không một vị giáo hoàng, không một vị thánh nào.

Khi mặt trời lặn, chàng lên đường và tìm chỗ mà người thôn phụ đã chỉ cho. Chàng đợi ở đấy. Thật êm đềm khi đợi chờ và biết rằng một người đàn bà đang trên đường tìm đến mình và chỉ mang theo với nàng tình yêu.

Nàng đến với một chiếc xắc vải trong đựng một khúc bánh mì lớn và một mẩu thịt dồi. Nàng mở ra và đặt trước chàng, nói: “Của anh đấy, ăn đi!”

“Thong thả,” chàng trả lời. “Tôi chưa cần ăn, chỉ cần em. ồ, hãy cho tôi xem những gì đẹp đẽ em đã mang lại cho tôi nào!” Nàng đã mang đến cho chàng biết bao mỹ vật. Đôi môi nặng thèm khát, hàm răng mạnh mẽ bóng ngời, đôi cánh tay tròn rám nắng, nhưng dưới cổ và trên thân mình, da nàng trắng và mịn. Nàng không biết nhiều lời, nhưng trong thanh quản nàng ngân lên một điệu nhạc yêu kiều và quyến rũ, và khi nàng cảm thấy những bàn tay chàng đặt trên thân thể mình, những bàn tay tinh tế, dịu dàng và truyền cảm mà nàng chưa từng biết, da thịt nàng run rẩy cổ họng nghẹn ngào.

Rồi nàng tiếc rẻ đứng lên, xót xa vì không thể ở lại. Chỉ còn một mình Đan Thanh, vui buồn xen lẫn. Rất khuya chàng mới nhớ đến bánh, thịt và lặng lẽ ngồi ăn trong trời đêm hoàn toàn u tối và cô đơn.

Chuyên mục:Uncategorized
  1. Không có bình luận
  1. No trackbacks yet.

Bình luận về bài viết này